Có sáu loại thuốc kháng vi-rút chính. Các lớp khác nhau hoạt động ở các giai đoạn khác nhau của vòng đời HIV để ngăn chặn nó tạo ra vi-rút mới. Nói chung, thuốc từ hai (hoặc đôi khi là ba) lớp được kết hợp để đảm bảo tấn công kết hợp vào HIV.

Những điểm chính

  • Có hơn 30 loại thuốc kháng vi-rút thuộc sáu nhóm thuốc được liệt kê dưới đây.

  • Mỗi loại thuốc tấn công HIV ở những giai đoạn khác nhau trong vòng đời của HIV.

1. Thuốc ức chế quá trình phiên mã ngược nucleoside/nucleotide của HIV (NRTI)

Sau khi virus HIV giải phóng vật liệu di truyền của nó vào tế bào chủ, phiên mã ngược chuyển đổi RNA của virus thành DNA, một quá trình được gọi là ‘phiên mã ngược’. NRTI phá vỡ quá trình xây dựng một đoạn DNA tiền virus mới, do đó ngăn chặn quá trình phiên mã ngược và ngăn chặn sự nhân lên của HIV. Nhóm thuốc này đôi khi được gọi là “xương sống” của sự kết hợp điều trị HIV hàng đầu. Nó bao gồm các loại thuốc sau: Abacavir, Emtricitabine, Lamivudine, Tenofovir disoproxil, Tenofovir alafenamide, Zidovudine, v.v.

2. Thuốc ức chế quá trình phiên mã ngược không phải nucleoside của HIV (NNRTI)

Chất ức chế phiên mã ngược không phải nucleoside (NNRTI) cũng nhắm vào phiên mã ngược, nhưng theo cách khác với NRTI. NNRTI can thiệp vào enzyme phiên mã ngược bằng cách liên kết trực tiếp với nó, ngăn chặn quá trình phiên mã ngược. Bao gồm: Doravirine, Efavirenz, Etravirine, Nevirapine, Rilpivirine, v.v.

3. Thuốc ức chế protein Integrase

Integrase chịu trách nhiệm đưa DNA bộ gen của virus vào nhiễm sắc thể vật chủ. Enzym integrase liên kết với DNA tế bào vật chủ, chuẩn bị một vùng trên DNA của virus để tích hợp, sau đó chuyển sợi đã xử lý này vào bộ gen của tế bào vật chủ. Thuốc ức chế integrase ngăn chặn vi-rút xâm nhập vào DNA của tế bào người. Bao gồm: Bictegravir, Dolutegravir, Elvitegravir, Raltegravir, Cabotegravir, v.v.

4. Thuốc ức chế enzyme Protease (PI)

Chất ức chế protease (PI) ngăn chặn hoạt động của enzyme protease, mà HIV sử dụng để phá vỡ các polyprotein lớn thành các mảnh nhỏ hơn cần thiết để lắp ráp các hạt virus mới. Mặc dù HIV vẫn có thể sao chép khi có chất ức chế protease, nhưng các virion tạo ra vẫn chưa trưởng thành và không thể lây nhiễm cho các tế bào mới. Bao gồm: Atazanavir, Darunavir, Lopinavir, v.v.

5. Thuốc tăng cường

Là thành phần được sử dụng để tăng cường tác dụng các nhóm thuốc kể trên. Thêm một liều nhỏ thuốc tăng cường vào thuốc kháng vi-rút khiến gan phân hủy thuốc chính chậm hơn, nghĩa là thuốc tồn tại trong cơ thể lâu hơn hoặc ở mức cao hơn. Nếu không có tác nhân tăng cường, liều thuốc chính được kê đơn sẽ không có hiệu quả.

6. Thuốc dành cho những người gặp hạn chế trong lựa chọn điều trị

Chủ yếu được sử dụng khi tình trạng kháng thuốc đã phát triển đối với thuốc hàng đầu hoặc hàng thứ hai. Vì chúng hoạt động khác với các loại thuốc hiện có nên chúng vẫn có tác dụng chống lại vi-rút đã phát triển tình trạng kháng thuốc đối với các nhóm thuốc kháng vi-rút khác.



Trên thực tế, các loại thuốc ARV phổ biến tại Việt Nam hiện nay là các phác đồ dùng một viên thuốc kết hợp, nghĩa là thuốc liều cố định kết hợp hai hoặc ba loại thuốc kháng vi-rút từ nhiều nhóm thành một viên thuốc duy nhất được uống một lần mỗi ngày. Việc tuân thủ điều trị theo yêu cầu của bác sĩ đặc biệt được nhấn mạnh để không dẫn đến tình trạng kháng thuốc. Nếu bị kháng thuốc, các loại thuốc ở các phác đồ bậc cao, các nhóm thuốc hỗ trợ hạn chế có thể không sẵn có, hoặc có giá thành rất cao, khó tiếp cận đối với đại đa số người Việt Nam.

 

Tin liên quan

Bản quyền Glink © CÔNG TY TNHH DOANH NGHIỆP XÃ HỘI GLINK VIỆT NAM - Copyright Glink © GLINK VIETNAM SOCIAL ENTERPRISE COMPANY LIMITED